Ðầu tư theo phong trào, hàng loạt doanh nghiệp đóng cửa, giải thể

admin
12/09/12
0
Con số doanh nghiệp (DN) giải thể, tạm ngừng hoạt động trên cả nước tiếp tục tăng, lên tới 35,5 nghìn DN trong tám tháng qua. Tuy nhiên, một tín hiệu đáng mừng là, đến tháng 8, cả nước có hơn 46 nghìn DN thành lập mới, cao hơn số DN giải thể, tạm ngừng hoạt động.
Mặc dù vậy, trong bối cảnh khó khăn hiện nay, tình trạng gia tăng số DN giải thể, tạm ngừng hoạt động cũng cảnh báo với các DN đang hoạt động, nếu DN không có những giải pháp căn bản để phát triển một cách bền vững, hiệu quả thì sẽ không dễ tránh khỏi sự đóng cửa hàng loạt như vừa qua.
Bài I: Năng lực cạnh tranh yếu
Một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng giải thể, tạm ngừng sản xuất, sản xuất cầm chừng… của nhiều DN hiện nay là do những yếu tố khách quan bên ngoài, từ những biến động bất thường, tiêu cực của kinh tế thế giới đến những khó khăn của kinh tế trong nước. Song, nguyên nhân sâu xa của tình trạng này chính là do những yếu kém của bản thân DN.
“Sống dở” trên đống hàng tồn kho
Một không khí im ắng bao trùm khuôn viên của Công ty CP Thép Sông Hồng (TP Việt Trì, Phú Thọ). Toàn bộ nhà máy sản xuất thép công suất 180 nghìn tấn/năm của công ty đã phải dừng hoạt động từ nhiều tháng nay, không còn bóng dáng công nhân nào trong nhà máy, thay vào đó là ngổn ngang sắt thép thành phẩm chất đống. Tổng Giám đốc Công ty Phạm Việt Cường cho biết, 250 công nhân của nhà máy buộc phải nghỉ chờ việc, hiện, công ty chỉ giữ lại một vài nhân viên để duy trì bộ máy văn phòng. Kết thúc năm 2011, DN này lỗ 134 tỷ đồng và bước sang năm 2012, tình hình sản xuất, kinh doanh của công ty vẫn không được cải thiện. Hiện, lượng thép tồn kho lên đến 12 nghìn tấn, tương đương khoảng 200 tỷ đồng, rồi các khoản công nợ cũng gần 100 tỷ đồng, chưa kể khoản vay ngân hàng 530 tỷ đồng. Thép sản xuất ra không tiêu thụ được cho nên công ty không trả kịp nợ ngân hàng, nhiều khoản nợ đã bị chuyển thành nợ quá hạn.”Nếu ngân hàng không hợp tác giúp đỡ thì chúng tôi sẽ buộc phải tuyên bố giải thể”.
Giống như Công ty CP Thép Sông Hồng, Công ty TNHH Tiên Sơn Thanh Hóa (Khu công nghiệp bắc Bỉm Sơn, Thanh Hóa) đã phải đóng cửa bốn xưởng sản xuất gỗ mỹ nghệ từ quý III năm 2011 với lượng sản phẩm tồn kho gần 6,5 triệu m2.”Sản phẩm thủ công mỹ nghệ không phải là mặt hàng tiêu dùng thiết yếu cho nên chúng tôi có giảm giá bán, thậm chí dưới giá thành để giải phóng hàng tồn kho cũng không ai mua. Vì vậy, DN chỉ còn cách duy nhất là chờ thị trường hồi phục” – Phó Tổng Giám đốc thường trực Lê Ðăng Thuyết than thở. Trong khi đó, DN vẫn phải gánh chi phí khấu hao máy móc, nguyên vật tư, lãi vay ngân hàng, đào tạo chuyển nghề cho 160 lao động sản xuất gỗ mỹ nghệ này. Công ty TNHH Tiên Sơn Thanh Hóa có ba ngành nghề kinh doanh chính là sản xuất gỗ mỹ nghệ, may công nghiệp và kinh doanh vận tải nhưng đến nay công ty chỉ hoạt động cầm chừng bằng ngành may công nghiệp.
Giải thể, đóng cửa sản xuất… là tình trạng chung của nhiều DN hiện nay trên địa bàn cả nước. Với những DN được coi là còn sống thì đang hoạt động cầm cự cùng lượng hàng tồn kho lớn.”Khó khăn lớn nhất của chúng tôi không còn là vấn đề vốn nữa mà chính là đầu ra cho sản phẩm” – Tổng Giám đốc Tổng công ty cổ phần Hàm Rồng (Thanh Hóa) Lê Văn Hưng chia sẻ. Nhà máy sản xuất gạch Sơn Trang của Tổng công ty này có công suất 32 triệu viên/năm đang phải dừng sản xuất do lượng hàng tồn kho lên đến 10 triệu viên (bằng một phần ba công suất nhà máy). Các khoản vay cũ của DN này đã được đưa về lãi suất 15%/năm giúp DN giảm 30% chi phí vay vốn. Song, lượng hàng tồn kho của DN khá lớn cho nên vốn bị đọng lại, không quay vòng được, điều này cũng đồng nghĩa với việc DN vẫn phải chịu lãi suất cao. Không tiêu thụ được sản phẩm, DN càng không thể trả nợ ngân hàng khiến nợ xấu tăng, DN cũng không dám vay vốn để mở rộng sản xuất, kinh doanh cho dù lãi suất các khoản vay mới được ngân hàng đưa về mức 13%/năm. Cứ thế, vòng luẩn quẩn này đang ngày càng siết chặt DN.
“Chết” vì dựa quá nhiều vào vốn vay ngân hàng
Có thể thấy, những khó khăn nêu trên của các DN trong nước một phần là do những tác động của kinh tế thế giới. Với một nền kinh tế có độ mở lớn như Việt Nam, các DN nước ta ngày càng hội nhập sâu vào nền kinh tế thế giới cho nên những biến động phức tạp, bất thường và bất lợi của kinh tế toàn cầu ngay lập tức ảnh hưởng tới các DN Việt Nam. Bên cạnh đó, kinh tế trong nước khó khăn, các cân đối vĩ mô thiếu bền vững, những yếu kém nội tại của nền kinh tế dần bộc lộ… đã khiến chính sách điều hành vĩ mô thời gian qua thay đổi liên tục, tác động không nhỏ tới hoạt động sản xuất, kinh doanh của nhiều DN. Tổng Giám đốc Công ty CP Thép Sông Hồng Phạm Việt Cường cho rằng, chính sách tiền tệ thời gian qua được điều hành một cách giật cục, DN không thể”chạy” theo các chính sách điều hành vĩ mô của Nhà nước. Năm 2009, nhờ chính sách nới lỏng tiền tệ nhằm kích cầu, ngăn chặn suy giảm kinh tế của Chính phủ, Thép Sông Hồng được hỗ trợ lãi suất vay ngân hàng 4%. Thời điểm đó, do lãi suất thấp, tiếp cận vốn lại dễ dàng cho nên công ty tập trung vay vốn đầu tư mở rộng sản xuất, đón đầu nhu cầu phát triển rầm rộ các dự án bất động sản. Thế nhưng đến năm 2010, rồi 2011, nhằm kiềm chế lạm phát, chính sách tiền tệ lại chuyển hướng sang thắt chặt, DN phải chịu lãi suất vay ngân hàng có thời điểm lên đến 24%/năm. Cùng với đó, chính sách thắt chặt tài khóa, cắt giảm đầu tư công làm hàng loạt các công trình xây dựng, dự án bất động sản phải dừng thi công, kéo theo lượng thép tiêu thụ của công ty sụt giảm và cho đến nay, công ty hoàn toàn bế tắc.
Không chỉ vậy, việc điều hành và quản lý giá các mặt hàng thiết yếu cũng làm nhiều DN đã khó khăn lại càng khó khăn hơn. Giám đốc Công ty liên doanh phân bón Hữu Nghị (Thanh Hóa) Lê Xuân Khuyến cho biết, từ đầu năm đến nay, chi phí xăng, dầu, điện, than tăng giá đã làm giá thành sản phẩm của công ty tăng 15% so cùng kỳ năm trước. Trong bối cảnh tiêu thụ sản phẩm khó khăn thì DN không thể tăng giá bán bởi nếu tăng giá thì càng không thể bán được hàng. Bảy tháng qua, sản lượng tiêu thụ NPK của công ty giảm 25%, doanh thu chỉ đạt 150 tỷ đồng, giảm 20% so cùng kỳ.
Những cú sốc từ bên ngoài như thị trường xuất khẩu bị thu hẹp hay giá nguyên, nhiên vật liệu trong nước và thế giới tăng, kinh tế trong nước gặp khó khăn, sức mua thị trường sụt giảm, sự thay đổi chính sách điều hành vĩ mô… đã dồn dập ập đến với DN Việt Nam trong những năm gần đây. Trong khi đó, năng lực cạnh tranh của các DN phần lớn là yếu cho nên chỉ cần một cú”sốc” nhỏ cũng khiến DN phải lao đao, chật vật. Sự đóng cửa, giải thể của không ít DN từ cuối năm 2011 đến nay cũng chính là hệ quả tất yếu của những DN có năng lực cạnh tranh yếu, không trụ lại được trên thị trường. Một trong những nguyên nhân sâu xa dẫn đến tình trạng này là DN hoạt động chủ yếu dựa vào vốn vay ngân hàng, chưa tiếp cận được các nguồn vốn khác. Vay nhiều, lãi suất lại cao khiến chi phí đầu vào của DN tăng cao, càng làm giảm sức cạnh tranh của DN. Nhiều DN đã”chết sặc” khi Chính phủ thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt, van tín dụng khóa lại, lãi suất ngân hàng dâng cao. Ðiển hình như Công ty CP Thép Sông Hồng vay ngân hàng tới 530 tỷ đồng, gấp hơn bốn lần vốn sở hữu của công ty và hiện công ty không còn khả năng trả nợ (cứ ngồi yên cũng phải trả ngân hàng 10 tỷ đồng/tháng), buộc phải”nằm chờ” các ngân hàng tái cơ cấu vốn.
Không chỉ vậy, theo thành viên HÐQT Công ty chứng khoán Thiên Việt Nguyễn Nam Sơn, những khó khăn mà DN Việt Nam đang gặp phải còn do hầu hết các DN đều thiếu chiến lược dài hạn, không nghiên cứu và dự báo thị trường dài hạn, phần lớn chỉ mải chạy theo thị trường, thay vì dẫn dắt thị trường trong khi quản trị DN lại yếu kém. Hội chứng kinh doanh ngân hàng, chứng khoán, bất động sản diễn ra rầm rộ từ nhiều năm qua thì đến nay, nhiều DN đã trả giá đắt khi bị giải thể, đóng cửa, sáp nhập. Hay phong trào kinh doanh đa ngành, đầu tư trái ngành, cơ hội, không dựa trên các năng lực cốt lõi cũng khiến nhiều DN thất bại. Công ty CP Prime Group (Khu công nghiệp Bình Xuyên, Vĩnh Phúc) từ ngành nghề kinh doanh ban đầu là sản xuất gạch ốp lát, sau nhiều năm hoạt động thành công, đã mở rộng đầu tư sang lĩnh vực khác như sản xuất bình nước nóng, bất động sản (xây dựng khu đô thị và trung tâm thương mại)… Tuy nhiên, đến nay, nhiều dự án bất động sản của công ty đã phải tạm dừng hoặc chấm dứt, không hề sinh lời, thua lỗ mặc dù vốn đầu tư cho lĩnh vực bất động sản chiếm khoảng 20% tổng số vốn của DN này. Phó Tổng Giám đốc Mai Tất Thắng thừa nhận, mặc dù công ty có tiềm lực tài chính tốt, lúc đầu tư vào lĩnh vực này tính toán theo lý thuyết là đúng nhưng do không lường trước được khả năng thị trường bất động sản bị đóng băng cho nên mới thất bại. Chiến lược”đi bằng nhiều chân” của công ty giờ chỉ còn dựa chủ yếu vào ngành nghề kinh doanh chính ban đầu là sản xuất gạch ốp lát và cũng chính nhờ mảng kinh doanh này đến nay, công ty hoạt động vẫn có lãi, dù số lãi rất thấp so với cùng kỳ năm trước.
Nhìn nhận tình trạng số DN tạm ngừng sản xuất, giải thể gia tăng gần đây, Phó Chủ tịch Hội doanh nghiệp tỉnh Vĩnh Phúc Ðường Trọng Khang cho rằng, đây một phần là hệ quả của sự phát triển DN tự phát, khiến các DN trong cùng một ngành phải cạnh tranh khốc liệt với nhau do cung đã vượt cầu, gây lãng phí nguồn lực và DN nào không đủ năng lực cạnh tranh, tất yếu bị loại bỏ khỏi thị trường. Lấy dẫn chứng nhiều DN thép, xi-măng rơi vào tình trạng”chết dở” như hiện nay, chuyên gia kinh tế Lê Ðình Ân nhấn mạnh, đó là bài học kinh nghiệm đắt giá cho những DN nào đầu tư theo phong trào, không có tầm nhìn chiến lược trong kinh doanh. Mặc dù vậy, cũng phải thừa nhận công tác quản lý quy hoạch phát triển ngành, cấp phép của các cơ quan quản lý nhà nước từ trung ương đến địa phương chưa thực hiện chặt chẽ,”tiếp tay” cho tình trạng các DN thép, xi-măng ồ ạt ra đời, phá vỡ tính cân đối về sản phẩm.
Bài 2: Cấp bách tái cấu trúc doanh nghiệp
Thực trạng khó khăn mà khu vực doanh nghiệp (DN) đang phải đối mặt đặt ra yêu cầu cấp bách phải tái cấu trúc DN để nâng cao năng lực cạnh tranh.
Ðầu tư theo phong trào, hàng loạt doanh nghiệp đóng cửa, giải thể
Ðây là cơ hội DN không thể bỏ lỡ, nếu không DN sẽ lại đi vào vết “xe đổ” giải thể hay tạm ngừng hoạt động… Bên cạnh sự nỗ lực của bản thân DN, DN rất cần sự hỗ trợ từ phía Nhà nước, nhất là tạo một môi trường kinh tế vĩ mô ổn định, nền tảng quan trọng để DN có thể phát triển bền vững và hiệu quả.
Thành công nhờ tái cấu trúc DN
Trong khi nhiều DN xi-măng khác đang “ngắc ngoải” bởi hàng sản xuất ra không bán được, phải dừng lò thì sản lượng clanh-ke sản xuất của Công ty cổ phần xi-măng Bỉm Sơn (Thanh Hóa) vẫn tăng 2% so cùng kỳ năm trước. Doanh thu của công ty cũng tăng khoảng 3%, thị phần của xi-măng Bỉm Sơn tại các địa bàn tương đối ổn định, riêng tại Nam Ðịnh và Quảng Bình, thị phần còn tăng lên tương ứng 1% và 7%. Giám đốc Bùi Hồng Minh chia sẻ: Ngay từ cuối năm 2011, nhận thấy rõ tình hình khó khăn trước mắt, công ty đã nhanh chóng triển khai kế hoạch tái cấu trúc hoạt động kinh doanh, bộ máy với bốn trụ cột chính là thị trường, sản xuất, quản trị DN và môi trường, an toàn lao động nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh để mở rộng và chiếm lĩnh thị trường. Trong bối cảnh sức mua trên thị trường sụt giảm mạnh, công ty xác định lại thị trường cốt lõi, tìm kiếm, tạo lập các phân khúc thị trường mới như tiếp cận các công trình nằm trong chương trình xây dựng nông thôn mới (kênh mương nội đồng, đường liên thôn, liên xã…), đồng thời tái cơ cấu sản phẩm, cho ra đời nhiều sản phẩm mới với nhiều ưu đãi cho nông dân… Nếu trước đây, thị trường xuất khẩu chưa được công ty tập trung khai thác thì nay xuất khẩu đang trở thành hướng đi chủ lực của công ty, kim ngạch xuất khẩu clanh-ke đã tăng 200% so cùng kỳ năm trước. Theo Giám đốc Bùi Hồng Minh, một DN không có hệ thống quản trị DN tốt thì không thể hoạt động hiệu quả. Vì thế, tái cấu trúc hệ thống quản trị DN sẽ giúp DN phản ứng linh hoạt với thị trường, phát huy tính chủ động, sáng tạo, tránh được những cú sốc từ bên ngoài… Ðể xây dựng mô hình quản trị mới, Công ty CP Xi-măng Bỉm Sơn thực hiện nhiều biện pháp như tiến hành cắt giảm các khâu quản lý không hợp lý, bố trí, sắp xếp lại cán bộ, ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý để quy trình ra quyết định nhanh hơn, xây dựng chiến lược kinh doanh dài hạn, quản trị tốt dòng tiền, thiết lập mô hình tiêu thụ mới với việc hình thành trung tâm vùng gắn với các nhà máy, xí nghiệp…
Hoạt động phụ thuộc quá nhiều vào vốn vay ngân hàng là một trong những hạn chế vốn có của nhiều DN Việt Nam. Ðây chính là nguyên nhân khiến nhiều DN không kịp “trở tay”, rơi vào hoàn cảnh khó khăn bi đát khi chính sách tiền tệ đột ngột thắt chặt. Chuyên gia kinh tế Lê Ðình Ân cho rằng, đã đến lúc các DN cần thay đổi phương thức huy động vốn theo hướng đa dạng hóa các nguồn vốn phục vụ sản xuất, kinh doanh (vốn từ các nhà đầu tư quốc tế, phát hành trái phiếu DN…), tránh rủi ro lệ thuộc vào một nguồn vốn duy nhất. DN muốn tăng trưởng dài hạn thì cần tiếp cận được các nguồn vốn quốc tế. Bên cạnh đó, chính sách đầu tư của DN phải có trọng tâm, trọng điểm, tập trung nguồn vốn vào những dự án hiệu quả nhằm đưa dự án đi vào hoạt động trong thời gian sớm nhất, tránh dàn trải, lãng phí nguồn lực, tăng chi phí đầu tư.
Còn theo Phó Chủ tịch Hội DN Vĩnh Phúc Ðường Trọng Khang, DN không nên “đứng núi này trông núi nọ”, chạy theo thị trường, làm ăn “chụp giật”, đầu tư theo phong trào. Quan trọng nhất là DN phải xây dựng được năng lực cốt lõi, xác định một đến hai ngành nghề kinh doanh có lợi thế để phát triển, trên cơ sở đó xây dựng chiến lược kinh doanh dài hạn, bài bản nhằm phát triển một cách bền vững. Với cách làm như vậy, Công ty TNHH Công nghệ Cosmos (Khu công nghiệp Khai Quang, Vĩnh Phúc) trở thành một trong những nhà cung cấp linh kiện, phụ tùng xe máy cho Honda Việt Nam. Mặc dù những tháng đầu năm, hoạt động bán hàng của Honda bị ảnh hưởng bởi sức mua thị trường sụt giảm nhưng để giữ uy tín, Honda vẫn thực hiện đúng cam kết mua hàng của các DN vệ tinh của mình. Nhờ đó, sản xuất kinh doanh của Cosmos dường như không bị tác động nhiều, công nhân của công ty hiện còn phải làm thêm giờ để bảo đảm giao kịp hàng cho Honda. Tổng Giám đốc công ty Ðặng Thị Ðối cho rằng, trở thành nhà cung cấp cho những tập đoàn lớn trên thế giới, DN có thể yên tâm về đầu ra cho sản phẩm, không phải lo đối phó  những biến động thất thường của thị trường, nhưng điều quan trọng nhất với DN là phải luôn bảo đảm chất lượng sản phẩm đạt tiêu chuẩn quốc tế. Với doanh thu ổn định, tình hình tài chính minh bạch, công khai, DN này không phải chật vật xoay xở nguồn vốn, ngược lại còn được ngân hàng mời chào vay vốn với lãi suất thấp. Hiện, công ty đang được vay với lãi suất chỉ 10,5%/năm. Theo Tổng Giám đốc Ðặng Thị Ðối, thị trường còn đầy tiềm năng đối với các DN phụ trợ nhưng  không phải DN nào cũng có thể dễ dàng thành công. Kinh nghiệm của Cosmos cho thấy, để tham gia được vào mạng sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu, DN cần có chiến lược kinh doanh dài hạn, đầu tư bài bản và làm việc nghiêm túc.
DN cần gì từ phía Nhà nước?
Bên cạnh sự nỗ lực, cố gắng của mình, bản thân DN cũng rất cần một môi trường vĩ mô ổn định. Ðây là cách gỡ khó căn bản nhất cho DN. Nhìn lại năm năm gần đây, những bất ổn kinh tế vĩ mô đã đem lại nhiều khó khăn và rủi ro cho DN. Năm 2008, lạm phát lên cao, Chính phủ buộc phải thực hiện một loạt các giải pháp thắt chặt tiền tệ và tài khóa, cắt giảm đầu tư công để ngăn ngừa lạm phát. Kết quả là, từ tháng 10 tới tháng 12-2008, lạm phát đã giảm mạnh, song, do thắt chặt tiền tệ và tài khóa một cách tương đối mạnh đã làm tăng trưởng kinh tế có dấu hiệu suy giảm, một loạt DN gặp khó khăn, đình đốn sản xuất. Trước tình hình đó, những giải pháp cấp bách nhằm ngăn chặn suy giảm kinh tế đã được Chính phủ ban hành vào cuối năm 2008 và thực hiện quyết liệt trong năm 2009. Hoạt động sản xuất kinh doanh của DN từng bước được tháo gỡ khó khăn nhờ việc nới lỏng chính sách tiền tệ và tài khóa bằng cách giảm, giãn thuế, hỗ trợ lãi suất cho DN, mở rộng chi tiêu và đầu tư công… Ðến năm 2010, lạm phát lại tăng cao đến 11,75%. Và năm 2011, ngay từ đầu năm, mục tiêu ưu tiên kiềm chế lạm phát tiếp tục được đặt ra trong Nghị quyết 11/NQ-CP của Chính phủ. Một lần nữa, chính sách tiền tệ và tài khóa được quay lại thực hiện theo hướng thắt chặt và nhờ đó những tháng cuối năm 2011, lạm phát từng bước được kiềm chế. Tuy nhiên, hệ quả không mong muốn là thanh khoản hệ thống ngân hàng căng thẳng, lãi suất cho vay tăng cao, tỷ lệ nợ xấu và nợ quá hạn tăng mạnh, các thị trường chứng khoán và bất động sản suy giảm nặng nề, sức cầu giảm sút, dẫn tới số lượng các DN giải thể, ngừng hoạt động tăng cao ngay từ những tháng đầu năm 2012. Giám đốc Công ty CP Xi-măng Bỉm Sơn (Thanh Hóa) Bùi Hồng Minh cho rằng, trong bối cảnh khó khăn, DN không tự cứu mình thì sẽ chết. Song, để có thể sống sót và phát triển, DN cũng rất cần một môi trường kinh doanh ổn định, bình đẳng, các chính sách của Nhà nước phải dài hạn, rõ ràng, dễ tiên lượng, công khai và minh bạch, giúp DN chủ động lên kế hoạch sản xuất, kinh doanh dài hạn.
Chuyên gia kinh tế Ngô Trí Long nhìn nhận, Chính phủ yêu cầu Ngân hàng Nhà nước hạ nhanh lãi suất cho vay nhưng cũng cần đồng thời có biện pháp không để lãi suất quay đầu tăng cao trở lại hoặc biến động bất thường như những năm trước, lúc tăng, lúc giảm, khi thì còn 10%, 6%/năm nhưng có lúc lên đến 16%, 18%, 22%/năm. Có như vậy, DN mới dám vay và yên tâm vay. Tương tự, với chính sách điều hành giá các mặt hàng thiết yếu, theo Phó Chủ tịch Hội DN tỉnh Vĩnh Phúc Ðường Trọng Khang, các mặt hàng này cần được ổn định giá trong một thời gian tương đối dài để DN có thể ổn định giá bán. Ðồng thuận với chủ trương thực hiện cơ chế thị trường với các mặt hàng thiết yếu nhưng các DN đều cho rằng, Nhà nước cần công khai chi phí kinh doanh các mặt hàng này để giám sát việc tăng, giảm giá, đồng thời kiểm soát chặt chẽ các loại giá, phí ảnh hưởng tới chi phí đầu vào của DN.
Ðể tháo gỡ những khó khăn hiện nay của DN, theo Phó Tổng Giám đốc thường trực Công ty TNHH Tiên Sơn Thanh Hóa Lê Ðăng Thuyết thì chủ trương, chính sách theo Nghị quyết 13/NQ-CP của Chính phủ là đúng, trúng nhưng việc triển khai thực hiện từ trung ương đến địa phương rất chậm. Những chính sách này thường có độ trễ rất lớn, trong khi đó, DN phải linh hoạt, thích ứng rất nhanh, do đó chính sách hỗ trợ DN của Nhà nước cần cụ thể, rõ ràng, triển khai được ngay để nhanh chóng đi vào cuộc sống. Trợ lý sản xuất Tổng Giám đốc Công ty xi-măng Hữu Nghị (Phú Thọ) Phan Văn Lộc cho rằng, chủ trương của Nhà nước đã có nhưng thực hiện là cả một vấn đề. Chẳng hạn như việc đẩy nhanh tiến độ giải ngân các dự án có vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước được các DN sản xuất vật liệu xây dựng kỳ vọng giải quyết hàng tồn kho nhưng đến tháng 9 này, ở nhiều địa phương, tình hình giải ngân các dự án này vẫn chưa có dấu hiệu chuyển biến tích cực.
Về lâu dài, khắc phục tình trạng DN phát triển một cách tự phát, Nhà nước cần đưa ra một hệ thống chính sách khuyến khích phát triển từng ngành, từng lĩnh vực, phù hợp chiến lược, kế hoạch, quy hoạch phát triển kinh tế – xã hội của đất nước cũng như xu hướng phát triển chung của thế giới, giúp DN biết khởi đầu từ đâu, hoạt động một cách có định hướng.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Giỗ tổ vua Hùng tháng mấy?